Căn cứ: Bộ luật Dân sự năm 2015 (viết tắt BLDS)
Chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật?
Một bản di chúc được coi là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện nêu tại Điều 630 BLDS:
- Người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình lập di chúc;
- Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, phải có các nội dung: Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản…
- Hình thức của di chúc không trái quy định của luật: Không được viết tắt, viết bằng ký hiệu; Nếu có nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc…
Đồng thời, Điều 643 BLDS quy định, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế hay là thời điểm người để lại di chúc chết. Đồng nghĩa di chúc sẽ không có hiệu lực trong các trường hợp sau:
- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di chúc;
- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm người này chết;
- Di sản trong di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
Đặc biệt: Di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Đồng thời, nếu một người để lại nhiều bản di chúc với 01 tài sản thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực.
Như vậy, theo quy định nêu trên, dù có nhiều bản di chúc nhưng chỉ có bản di chúc hợp pháp cuối cùng của người đó mới có hiệu lực.
Hủy di chúc đã lập được không? (Ảnh minh họa)
Có được hủy di chúc đã lập không?
Di chúc được lập khi người để lại tài sản minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc và được lập thành văn bản, nếu không thể lập thành văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
Đồng thời, di chúc là ý chí của một người khi muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau khi bản thân chết. Nên đây chính là ý chí chủ quan của người để lại di sản.
Do đó, nếu tại các thời điểm khác nhau, người để lại di sản thay đổi mong muốn thì hoàn toàn có quyền thay thế di chúc khác.
Ngoài ra, Điều 640 BLDS nói rõ:
Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.
Như vậy, pháp luật không cấm việc thay đổi di chúc mới nên người để lại di chúc hoàn toàn có quyền hủy di chúc đã lập trước đó.
Lưu ý: Bản di chúc mới cũng phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một bản di chúc hợp pháp và trong trường hợp người lập di chúc thay thế bằng bản di chúc mới thì di chúc cũ phải bị hủy bỏ.
>> Di chúc: Cần biết những thông tin gì khi viết di chúc?
Nguyễn Hương
Có 0 bình luận trong bài viết này